bài thơ chợ tết của đoàn văn cừ
Bài thơ là một bức tranh giàu màu sắc về chợ Tết. Đoàn Văn Cừ đã sử dụng các từ ngữ một cách chính xác, tinh tế và biểu cảm để tạo nên bức tranh giàu màu sắc ấy: (dải mây) trắng đỏ dần..
Văn mẫu lớp 9 Dựa vào các bài thơ Quê hương của Tế Hanh, Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ, Nắng mới của Lưu Trọng Lư và Nhớ rừng của Thế Lữ để làm sáng tỏ nhận định: Quê hương đất nước đã chiếm một khoảng rộng trong trái tim tình yêu của Thơ mới.
Chợ Tết đông vui, nhiều hàng hoá, lương thực, thực phẩm. Đi chợ Tết để bán hàng, để mua sắm. Cũng có người, nhất là trẻ con đi chợ Tết để vui chơi. Bài thơ Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ là một kiệt tác văn chương, vừa đẹp vừa vui. Đọc Chợ Tết ta tưởng như
Website: https://www.nhansinhphieubat.comFacebook: https://www.facebook.com/NhanSinhFieuBat#nhansinhphieubat #thienosho #ngheosholathien
Nội dung chínhMục Lục:1, Chợ Tết2, Năm Mới3, Giờ Quốc Sử4, Đường Về Quê Mẹ5, Tết Quê Bà6, Trăng Hè7, Thu8, Đám Cưới Mùa Xuân9, Anh Tôi10, LàngNguyễn Hải Yến Tuyển Tập 10 Bài Thơ Hay Và Đặc Sắc Nhất Của Nhà Thơ Đoàn Văn Cừ Mục Lục: 1, Chợ Tết 2, Năm Mới 3, Giờ Quốc Sử 4, Đường Về Quê Mẹ 5, Tết
Quel Est Le Site De Rencontre Qui Marche Le Mieux. Bài thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon... mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon, Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ, Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu, Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo trắng rỏ đầu cành như giọt sữa, Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh. Người mua bán ra vào đầy cổng chợ. Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ, Để lắng nghe người khách nói bô bô. Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ, Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán. Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản, Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân. Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm, Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ. Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau. Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu, Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. Áo cụ lý bị người chen sấn kéo, Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra. Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà, Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi, Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa. Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống mào thâm như cục tiết, Một người mua cầm cẳng dốc lên tưng bừng như thế đến gần đêm, Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh, Trên con đường đi các làng hẻo lánh, Những người quê lũ lượt trở ra về. Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê, Lá đa rụng tơi bời quanh quán giả Đoàn Văn thơ Chợ Tết đăng lần đầu trên báo Ngày trên dẫn theo Đoàn Văn Cừ toàn tập, dưới đây là bản trong Thi nhân Việt Nam, có một số khác biệtBài thơ Chợ TếtDải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon, Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ, Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu, Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau. Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình mua bán ra vào đầy cổng chợ. Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ, Để lắng nghe người khách nói bô bô. Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ, Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán. Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản, Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân. Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm, Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ. Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau. Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu, Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. Áo cụ lý bị người chen sấn kéo, Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra. Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà, Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rợi, Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa. Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống màu thâm như cục tiết, Một người mua cầm cẳng dốc lên tưng bừng như thế đến gần đêm, Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh, Trên con đường đi các làng hẻo lánh, Những người quê lũ lượt trở ra về. Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê, Lá đa rụng tơi bời quanh quán 1. Chợ Tết, Đoàn Văn Cừ toàn tập, NXB Hội nhà văn, 2013 2. Chợ Tết, Tinh tuyển văn học Việt Nam tập 7 Văn học giai đoạn 1900-1945, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004 3. Chợ Tết, Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Hoa tiên, thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon… thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon… thơ Chợ Tết Đoàn Văn Cừ Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc, Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon…
Nhà thơ Đoàn Văn Cừ sinh ngày 25 tháng 3 năm 1913 ở thôn Đô Đò, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định trong một gia đình nông dân. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đoàn Văn Cừ dạy học, ông đã tham gia phong trào công nhân Nhà máy sợi Nam Định năm 1936. Ông tham gia phong trào Thơ mới với bút pháp tả chân mang đậm chất lãng mạn, sở trường viết về cảnh trí và đời sống thôn quê. Bài thơ Chợ Tết của ông được Hoài Thanh – Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Hội đồng Nhân dân tỉnh Nam Định. Năm 1948 ông tham gia Việt Minh trong Kháng chiến chống Pháp làm công tác văn nghệ, phiên dịch, công tác địch vận Liên khu III. Từ năm 1959 ông là cán bộ biên tập Nhà xuất bản Phổ Thông Bộ Văn hóa. Từ năm 1971 ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh gồm ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1974 ông công tác tại Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Nam Ninh, tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông gần như sống ẩn dật ở quê trong những năm cuối đời và mất tại đây ngày 27 tháng 6 năm 2004. Ngoài tên thật Đoàn Văn Cừ ông còn có các bút danh khác là Kẻ Sĩ, Cư Sĩ Nam Hà, Cư Sĩ Sông Ngọc và ngoài thơ cũng sáng tác văn xuôi. Đoàn Văn Cừ được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001. Con trai ông, họa sỹ Đoàn Văn Nguyên cũng được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2006. Tác phẩm Thôn ca I 1944 Thơ lửa 1947 Việt Nam huy hoàng 1948 Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu 1953 Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc 1958 Thôn ca II 1960 Dọc đường xuân 1979 Đường về quê mẹ 1987 Tuyển tập Đoàn Văn Cừ 1992 Chú khách bán thuốc rê January31 […]Ngày xế về hôm, nắng úa tàSương trùm trên ngọn núi xanh xaBóng người khách bước trên đường vắngNhư chiếc chim non lạc tổ nhà. Ông đội January31 […]Những buổi chiều xanh tắt nắng rồiBên đồng bát ngát lúa vàng tươiÔng cùng con trẻ giăng hàng đứngBắt cởi trần ra tập võ chơi[…] Làng January30 […]Những tối trăng vàng đỗ ngọn treĐèn thôn xa ngọn ánh xanh lèTiếng gầu tát nước bên đường cáiLẫn tiếng ai cười nhí nhảnh điĐêm hè giã gạo tiếng chày ngânTrời biếc trăng sao gội xuống trầnĐường ngõ ra vào chen những bóngChiếc diều lơ lửng dưới sông Ngân[…] Đám hội September29 […]Người đi xem nhiều kẻ đã ra về…Trên đường vắng lá đề rơi lác xa rúc từng hồi trong xóm mạc,Trời đỏ hồng sau những trái đồi xanh,Đàn chim hôm nhớn nhác gọi trên tháp trắng in dài trên đồng chuông tối nhặt khoan trong yên lặng,Lẫn trống chèo văng vẳng phía làng xaCủa đám dân nô nức dưới trăng tà… Đường về quê mẹ October21 […]Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,Đoàn người về ấp gánh khoai lang,Trời xanh cò trắng bay từng lớp,Xóm chợ lều phơi xác lá áo nâu in giữa cánh đồng,Gió chiều cuốn bụi bốc sau u hay bóng người thôn nữCúi nón mang đi cặp má đường làng gặp những người cũng khen u nết thảo hiền,Dẫu phải theo chồng thân phận gáiĐường về quê mẹ vẫn không quên. Chợ Tết January20 […]Một thày khóa gò lưng trên cánh phảnTay mài nghiên hý hoáy viết thơ xuânCụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằmMiệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏBà cụ lão bán hàng bên miếu cổNước thời gian gội tóc trắng phau phauChú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu[…] Tết January20 Sáng hôm mồng một TếtĐèn nến thắp xong rồiBà tôi ngồi trong ổMặc áo đỏ cho tôiÔng tôi vừa thức dậyNằm ngó cổ trông raTrên ngọn cây đèn bóngTrời lất phất mưa sa[…]
Mời bạn nghe lại bài thơ bất hủ này qua giọng ngâm của nghệ sĩ Hồng Nghệ sĩ Hồng Ngát ngâm bài "Chợ Tết" nguồn VTVChợ TếtDải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núiSương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranhTrên con đường viền trắng mép đồi xanhNgười các ấp tưng bừng ra chợ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếcNhững thằng cu áo đỏ chạy lon xonVài cụ già chống gậy bước lom khomCô yếm thắm che môi cười lặng lẽThằng em bé nép đầu bên yếm mẹHai người thôn gánh lợn chạy đi đầuCon bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo trắng rỏ đầu cành như giọt sữaTia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúaNúi uốn mình trong chiếc áo the xanhĐồi thoa son nằm dưới ánh bình mua bán ra vào đầy cổng chợCon trâu đứng vờ rim hai mắt ngủĐể lắng nghe người khách nói bô bôAnh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồTìm đến chỗ đông người ngồi giở bánMột thầy khoá gò lưng trên cánh phảnTay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuânCụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằmMiệng nhẩm đọc vài hàng câu đối cụ lão bán hàng bên miếu cổNước thời gian gội tóc trắng phau hoa man đầu chít chiếc khăn nâuNgồi xếp lại đống vàng trên mặt cụ lý bị người chen sấn kéoKhăn trên đầu đang chít cũng bung raLũ trẻ con mải ngắm bức tranh gàQuên cả chị bên đường đang đứng cô gái ôm nhau cười rũ rượiCạnh anh chàng bán pháo dưới cây mẹt cam đỏ chót tựa son phaThúng gạo nếp đong đầy như núi tuyếtCon gà trống mào thâm như cục tiếtMột người mua cầm cẳng dốc lên tưng bừng như thế đến gần đêmKhi chuông tối bên chùa văng vẳng đánhTrên con đường đi các làng hẻo lánhNhững người quê lũ lượt trở ra vềÁnh dương vàng trên cỏ kéo lê thêLá đa rụng tơi bời quanh quán chợ. Bổ ích Xúc động Sáng tạo Độc đáo
Làng Thơ Việt Nam lại vừa mất đi một hồn thơ lặng lẽ và khiêm nhường nhà thơ Đoàn Văn Cừ. Phiên Chợ Tết bất hủ của ông đã đi vào tâm trí người đọc nhiều thế hệ; “chuỗi cười ngũ sắc” Thi nhân Việt Nam dạt dào sự sống, niềm yêu đời, cái nhìn bao dung, nhân ái đó đã đi vào tâm hồn ta. Chợ Tết * 1. Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,3. Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,4. Người các ấp tưng-bừng ra chợ Họ vui-vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;6. Những thằng cu áo đỏ chạy lon-xon,7. Vài cụ già chống gậy bước lom-khom,8. Cô yếm thắm che môi cười lặng-lẽ, 9. Thằng em bé nép đầu bên yếm Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,11. Con bò vàng ngộ-nghĩnh đuổi theo Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, 13. Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,14. Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, 15. Đồi thoa son nằm dưới ánh bình-minh. * 16. Người mua bán ra vào đầy cổng Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ,18. Để lắng nghe người khách nói Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ,20. Tìm đến chỗ đông người ngồi dở Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản, 22. Tay mài nghiên hí-hoáy viết thơ Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,24. Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,26. Nước thời-gian gội tóc trắng phau Chú hoa-man đầu chít chiếc khăn nâu, 28. Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt áo cụ lý bị người chen sấn kéo,30. Khăn trên đầu đương chít cũng tung Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà32. Quên cả chị bên đường đang đứng Mấy cô gái ôm nhau cười rũ-rợi,34. Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha,36. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,37. Con gà trống màu thâm như cục tiết,38. Một người mua cầm cẳng dốc lên xem. *39. Chợ tưng-bừng như thế đến gần Khi chuông tối bên chùa văng-vẳng đánh,41. Trên con đường đi các làng hẻo-lánh,42. Những người quê lũ-lượt trở ra ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê,44. Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ. Ngày nay - “Tiếng cười ta còn nghe văng-vẳng thì người đã biến đâu rồi và ta đành chờ mùa xuân khác”. Thi nhân Việt Nam Đọc lại bài thơ ta tưởng như còn nghe thấy tiếng cười khúc khích, hóm hỉnh, lại rất hiền lành của một nhà thơ thôn dã. Chép lại bài thơ và tìm hiểu nó, tôi coi như một niềm thành kính, một nén tâm hương tưởng nhớ đến con người của những vẻ đẹp Thôn ca bình dị. Những con số đứng đầu dòng thơ là do tôi đánh để tiện phân tích. ** * Trong biểu tượng văn hóa thế giới chợ, theo quan niệm của Trung Hoa cổ vừa là nơi trao đổi, mua bán, còn là địa điểm hẹn hò yêu đương, nơi diễn ra các nghi lễ cầu mưa, sản xuất dồi dào, cầu trời phù hộ… Từ điển còn cho biết điều này đúng đến mức nếu muốn trời thôi mưa phải cấm phụ nữ bước vào chợ. Nói cho vui Cấm chị em đi chợ thì chợ thiệt, đàn ông thiệt vì bếp đói, chị em cũng chẳng vui vẻ gì “Môn thể thao ưa thích nhất của phụ nữ là đi chợ”! Riêng với chợ trong những ngày Tết thì không chỉ có chị em. Thực ra, vẫn theo biểu tượng văn hóa thế giới, chợ còn là nơi giao hòa âm dương, là địa điểm thái bình. Cấu trúc không gian của bài thơ hài hòa và tấp nập, đan xen thanh bình giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ gồm ba khổ khổ 1, 15 dòng; khổ 2, 23 dòng; khổ 3, 6 dòng được ngăn cách bởi các dấu sao. Khổ 1 và khổ 3 đều có thiên nhiên và con người. Riêng khổ 2, trung tâm của bài thơ, lớn nhất, chỉ dành để quan sát, miêu tả con người trong những cử chỉ, dáng điệu, âm thanh cười, nói cùng những hoạt động của họ. Nếu như ở khổ 1, số dòng thơ tương đối cân bằng giữa thiên nhiên và con người 8/7 trên đường đến chợ; thì ở khổ 3 thiên nhiên lấn át con người 5/1 cảnh chợ vãn, gợi nhớ đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Trong khổ 2, chợ xuất hiện thay chỗ cho thiên nhiên; “người kể chuyện” hướng cái nhìn đôn hậu của mình vào đối tượng là con người để “tự sự”. Không gian trong văn bản nghệ thuật là “tổng hợp của các đối tượng cùng loại” và “giữa chúng có các quan hệ giống các quan hệ không gian thông thường tính liên tục, khoảng cách...” Yu. Lotman. Những từ ngữ chỉ quan hệ không gian trên, dưới, trong, ngoài trong thơ Đoàn Văn Cừ “chuyển kênh” rất từ tốn, nhẹ nhàng, chậm rãi cùng với một lễ hội của sắc màu tươi vui, rực rỡ “Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, / Sương hồng lam ôm ấp mái nhà tranh, / Trên con đường viền trắng mép đồi xanh”. Từ không gian tĩnh, khách quan được tiếp xúc từ xa này chúng ta chuyển sang không gian động, chủ quan được tiếp xúc thân mật, gần gũi qua những động từ có tính chất vận động “Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa, / Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, / Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, / Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh”. Trong cả hai cảnh trên không gian được xếp theo trục thẳng đứng trên - dưới từ đỉnh núi xuống đến con đường; từ đầu cành đến trong ruộng lúa, từ núi xuống đồi. Khu vực tiếp xúc sáp lại dần cho đến không gian công cộng nơi sinh hoạt của con người. Cùng với sự vận động của thiên nhiên, là con người “tưng bừng ra chợ Tết” nam, phụ, lão, ấu và có lẽ người bán nhiều hơn cả người mua chỉ đến cuối khổ 2 dòng 38 mới thấy có “Một người mua cầm cẳng dốc lên xem” một con gà. Ngoài ra, từ bán vẫn áp đảo anh hàng tranh ngồi dở bán; bà cụ lão bán hàng; anh chàng bán pháo. Người ta đi xem Chợ Tết cùng với âm thanh nhiều cung bậc cười lặng lẽ; nói bô bô; nhẩm đọc; cười rũ rợi... Có hai câu đứng độc lập một cách độc đáo không liên hệ với trước nó và cũng không liên hệ với sau nó. Mở đầu khổ 2 “Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.” 16 và mở đầu khổ 3 “Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm.” 39. Cả hai câu đều đứng ở đầu mỗi khổ để thông báo ngắn gọn về cái sắp diễn ra và cái sẽ kết thúc. Sau câu 16 trở đi, thì gần như cứ luân phiên một dòng có dấu phảy đến một dòng có dấu chấm thành một cặp câu đủ tạo nên một bức tranh “Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ, / Để lắng nghe người khách nói bô-bô.” Rồi “Anh hàng tranh kĩu-kịt quảy đôi bồ, / Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.”… Cứ như thế, cả khổ 2 người đọc sẽ được thưởng thức 10 cảnh rất vui về hoạt động của con người với những âm thanh, cử chỉ cùng sắc màu. Cũng với dấu chấm câu rất cẩn thận như vậy 4 câu đầu và 4 câu cuối của khổ 1 là những bức tranh hoàn chỉnh về thiên nhiên “nằm dưới ánh bình minh” mà ở giữa đó là con người. Cặp câu kết của bài thơ vẫn có màu sắc nhưng đã bớt nhiều tươi vui “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê-thê, / Lá đa rụng tơi-bời quanh quán chợ.” Những từ láy lê-thê, tơi-bời vần bằng có chút gì đó của thê lương, ảm đạm đối lập hẳn với không khí náo nhiệt bên trên. Nhận xét về câu kết trong thơ Đoàn Văn Cừ, các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã viết “Những câu ấy đều khép lại một thế-giới và mở ra một thế-giới khép một thế-giới thực, mở một thế-giới mộng. Cảnh vừa tan thì trong lòng cũng vừa nhóm. Mắt ta không thấy gì nữa nhưng lòng ta bỗng bâng-khuâng”. Cái “thế-giới mộng” ấy có lẽ còn nằm ở nguyên tắc phối màu của bài thơ. Chúng tạo thành những bức tranh được “lắp ghép” liền kề nhau, “độc lập” bên nhau, hối hả, náo nhiệt. Một khu triển lãm trưng bày sắc màu mà gam chủ đạo là màu nóng ấm màu đỏ. Màu đỏ trong biểu tượng văn hóa thế giới được coi là “biểu tượng cơ bản của bản nguyên sống”, là “màu của ngày, của dương tính”, của sự sống, của thiên ân, thông điệp của hy vọng, “phát tiết từ mặt trời và đó là màu siêu việt nhất”… cũng là màu của tình cảm. Màu đỏ cùng với “họ hàng” đậm nhạt của nó hồng, son, thắm, tía trở đi trở lại đến 9 lần, gần như rải suốt chiều dài bức tranh Chợ Tết ít hơn một chút so với tổng các màu còn lại 4 từ trắng; 4 từ xanh, biếc, lam; 3 từ vàng; 1 từ nâu. Riêng đối với từ vàng thì con bò vàng 11 và đống vàng 28 chỉ vật chất đối lập với ánh dương vàng 43 chỉ tinh thần, hướng nội. Cũng tương tự như vậy với từ trắng 3 lần đầu mây trắng 1; con đường viền trắng 3; sương trắng 12 chỉ vật chất; 1 lần cuối vừa chỉ vật chất tóc trắng 26 vừa chỉ thời gian. Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất tinh tế về hai câu thơ này “Thỉnh thoảng giữa những câu tả chân chặt chẽ, chen vào một câu bất ngờ, vụt ngời lên như một luồng sáng giữa bức tranh Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau." Giờ đây khi nhìn vào cấu trúc bài thơ thấy trên hai câu này là 24 dòng và dưới nó là 18 dòng, cũng coi như nằm “giữa bức tranh” đúng như nhận định bên trên. Đây là hai câu tuyệt bút hiếm hoi về thời gian và đậm đặc tính thời gian bà cụ lão; miếu cổ; nước thời gian; tóc trắng in dấu vết thời gian đều đứng án ngữ ở hai đầu hai câu thơ tạo nên một bức tranh vừa im lìm vừa chuyển động của thời gian. * Đọc lại Chợ Tết ta bỗng thấy hân hoan, vui thích bởi sự chuyển động của không gian, sắc màu và con người. Nhà họa sĩ “ngây thơ” Đoàn Văn Cừ đã trình bày cho ta biết một “bản nguyên sống” trong sự tồn tại hồn nhiên, bề bộn mà lại nhịp nhàng của đời sống. Trong đời sống đó, con người là trung tâm trong cái nhìn và sáng tạo nghệ thuật của ông Con người là trung tâm trong mỗi khổ thơ; con người lại là trung tâm khổ 2 của toàn phiên Chợ Tết mà ở giữa trung tâm đó lại là thời gian. Cái thời gian sẽ chia cách hai thế giới đối với mỗi số phận; nhưng cũng cái thời gian đó sẽ làm bền vững hơn cho những tác phẩm nghệ thuật đích thực, cho nền tảng văn hóa sâu xa của mỗi cộng đồng người mà Chợ Tết là muôn một. Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2004 _____________________ * Bài thơ trên được trích trong tập Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Hoa tiên, 1967. Chúng tôi có tham khảo thêm hai bản khác Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam 1932 - 1945, NXB Văn học, Hà Nội, 1988; và Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1998. - TG. ** Đoàn Văn Cừ mất ngày 27/6/2004, thọ 92 tuổi. - eVăn.
bài thơ chợ tết của đoàn văn cừ